Viêm cầu thận mạn (thể phù)
Biện chứng đông y: Tì thận dương hư, thủy thấp nội đình, khí huyết ứ trệ.
Cách trị: Hoạt huyết hóa ứ, lợi thủy tiêu thũng.
Đơn thuốc: Gia vị hóa ứ thận viêm phương.
Công thức:
ích mẫu thảo 30g, Đan sâm 15g, Đương quy 15g, Mao cǎn 15g, Xa tiền tử 15g, Trạch tả 15g, Hồng hoa 12g, Xuyên khung 12g, Ngưu tất 12g, Bạch truật 12g, Ma hoàng 10g.Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Dương XX, nữ, 26 tuổi. Nǎm 1971 bị viêm cầu thận cấp. Sau đó bị phù, váng đầu, đau lưng, tái phát liên tục, từng nằm viện 2 lần, chẩn đoán viêm cầu thận mạn, tinh thần không phấn chấn, lười nói, đầu váng, mắt hoa, tứ chi lạnh, toàn thân cǎng đau, lưng mỏi, chân mềm yếu, nước tiểu ít, trong, tắt kinh đã 2 nǎm. Rêu lưỡi trắng bẩn, lưỡi tím, rìa lưỡi có điểm ứ, mạch trầm sác. Xét nghiệm nước tiểu: albumin (+++, bạch cầu 0-4, hồng cầu 0-2). Cho dùng 6 thang bài thuốc trên. Khám lần thứ hai: tinh thần khá hơn, lượng nước tiểu tǎng, bớt phù nề, lưng và khớp tứ chi đau lạnh. Cần phải hoạt huyết hóa ứ, ôn dương lợi thủy. Uống bài thuốc trên bỏ Ma hoàng, Mao cǎn, thêm Nhục quế 3g, Ba kích 15g, Bổ cốt chỉ 12g, 6 thang. Khám lần thứ ba: hành kinh, phù cơ bản rút hết, lưng và khớp chân tay đỡ đau, lạnh. Xét nghiệm nước tiểu: albumin (+), bạch cầu 0-2. Tiếp tục ôn thận kiện tì bằng bài thuốc: Chế phụ phiếu (sắc trước), Bạch truật mỗi thứ 10g, Ba kích thiên, Độc hoạt, Phục linh mỗi thứ 12g, Nhục quế 3g, (tán bột, chiêu với nước thuốc). Uống 10 thang, khám lại lần thứ 4: mọi chứng ở toàn thân đều hết. Xét nghiệm nước tiểu bình thường. Uống tiếp 5 thang bài thuốc trên để củng cố. Theo dõi 2 nǎm, không thấy tái phát, có thể tham gia lao động.
Bàn luận: Sự vận hành của nước trong cơ thể dựa vào sự vận chuyển của tì, khí, sự điều hòa của phế khí và sự đóng mở của thận khí. Nếu phế, tì, thận mất chức nǎng thì vận hành của nước trong cơ thể bị trở ngại, thủy thấp dừng ứ bên trong, trào dâng mà thành phù. Thấp là âm tà, rất dễ làm trở ngại làm tắc khí cơ, thương tổn dương khí, lâu ngày dương hư hàn thắng, hàn thấp ngưng trệ, thì huyết không thông, dẫn tới khí trệ mất đi thì khí huyết lưu thông, phế, tì, thận phục hồi chức nǎng sinh lý, thông đường tuần hoàn nước, các chứng sẽ hết. Vì bệnh này hư thực lẫn lộn song gốc là hư, nên sau khi trừ được ứ trệ, phải kịp thời bổ hư trị gốc mà củng cố hiệu quả điều trị.
|